Do ngày càng nhiều bà mẹ ái ngại cho tình hình thực phẩm và sức khỏe ngày nay. Bếp Thực Dưỡng xin mở ra chủ đề Thai Giáo tập trung vào các vấn đề bà mẹ, trẻ em. Các nội dung liên quan về chủ đề này từ nhiều tác giả sẽ được tổng hợp, biên tập và đăng lên bepthucduong.com để mọi người có thể tham khảo. Đây là con đường thật sự sung sướng cho các chị em.
ĂN UỐNG TRONG THỜI KỲ THAI NGHÉN
Thức ăn chính:
Gạo lứt, trồng tại địa phương và không bón phân hoá học là tốt nhất. Nếu không có gạo lứt thì có thể ăn các loại cốc lứt khác mà người bản xứ xưa nay thường dùng như kê, bắp, các loại gạo mạch, gạo mì (nếu vỏ cám quá dày có thể giã hoặc xát bớt 1/4)
Thức ăn phụ:
Các loại rau củ đúng mùa, đặc biệt là những loại Dương như cà rốt, củ sen, bí đỏ, cải, bồ công anh. Dùng theo tỉ lệ ăn 4-5 miếng cơm mới ăn 1 miếng rau. Nên kiêng khoai tây, khoai mì, các loại cà, kể cả cà chua. Khi làm rau, nhớ tận dụng những phần ăn được (lá, rễ, cộng, hoa), chỉ bỏ phần quá cứng dai.
Hạn chế tối đa trái cây và đường (tuyệt đối tránh đường cát trắng và các loại bánh kẹo làm bằng bột trắng với đường cát trắng hoặc đường hoá học). Không nên uống nước đá, nước ngọt vô chai vô lon và các thực phẩm làm bằng sữa thú. Hàng ngày nên ăn muối mè và xúp tương đặc (mi sô). Tuyệt đối không dùng bột ngọt và bất cứ gia vị tổng hợp nhân tạo nào. Không ăn thịt là tốt nhất. Thỉnh thoảng có thể dùng cá, nên chọn cá nhỏ có thể ăn luôn xương, vảy. Tránh các loại cá lớn, nhất là cá thịt đỏ nhiều dầu (mỡ). Kiêng ăn tôm, cua, ốc. Món cá đặc biệt cho phụ nữ mang thai và cho con bú là cá gáy (cá chép) ninh tương (koi koku).
Các loại đậu đều ăn được, nhất là đậu đỏ.
Các loại rong biển (rau câu), đặc biệt là rong phổ tai (kombu), dùng rất tốt (nấu với đậu, rau củ hoặc kho tương).
Các loại rau củ muối hoặc ngâm tương lâu năm đều dùng được.
Rau củ muối chua trong thời gian ngắn chỉ nên dùng vào mùa nóng, nhưng không ăn quá 50 gram mỗi ngày. Không nên ăn rau sống. Có thể ăn rau trộn gỏi vào mùa nóng.
Dầu nấu ăn dùng dầu mè (dầu vừng) là tốt nhất.
Món tráng miệng hoặc ăn chơi:
Bánh làm bằng gạo lứt hoặc các loại ngũ cốc khác có hoặc không có đậu (nếu thèm ngọt thì chỉ dùng đôi chút đường thiên nhiên nguyên chất – đường đen, đường vàng, thỉnh thoảng có thể ăn chè )
Bánh dầy hoặc bánh ít (làm bằng gạo lứt, có hoặc không có lá gai, lá ngải cứu)
Thức uống:
Trà gạo lứt, cà phê Thực Dưỡng, trà ba năm; từ 5 tháng trở đi có thể dùng trà ngải cứu. Uống càng ít càng tốt, khoảng 1/3 lít mỗi ngày
Cách dùng bữa:
Khi ăn nên ngồi thẳng lưng. Trước khi ăn miếng đầu tiên, hãy tỏ lòng biết ơn Trời Đất thiên nhiên, biết ơn mọi người mọi vật, kể cả món ăn thức uống của mình (thầm nghĩ, nói thành lời hoặc đọc kinh tôn giáo)
Nhai thật kỹ, mỗi miếng cơm gạo lứt cần nhai 100 lần trở lên. Khi nhai nhớ ngậm miệng và nhai thật chậm rãi, tâm trí tập trung vào việc ăn.
Tìm đọc COOKBOX 2 để nấu các món ăn tốt cho thai phụ
AN THAI
Hàng ngay nên vận động thân thể, tốt nhất là làm công việc nhà. Có thể tắm rửa hàng ngày, dùng nước pha muối hoặc nước lá cải. Thỉnh thoảng ngâm mông với nước cải pha muối (nấu khoảng 4-5 lít nước với 2-3 nắm lá cải cay và nắm muối hột; lấy nước cải đổ ra cái chậu, chờ nguội bớt rồi ngồi bẹt vào chậu cho nước ngập tới rún; ngâm độ 15 phút rồi lau người thật khô)
Thai Giáo ngày xưa cũng dạy người phụ nữ mang thai nhiều điều rất chi tiết, chẳng hạn đi, đứng, nằm, ngồi phải ngay ngắn, đoan trang. Ngoài ra, nàng còn phải biết tạo ra một môi trường trật tự, ngăn nắp, tươi sáng và hoà hợp; sáng sớm nên đọc kinh sách thánh hiền, buổi tối dành ra ít phút để tĩnh tâm hay cầu nguyện. Nàng không được nhìn những màu sắc sặc sỡ loè loẹt, những tranh ảnh kích thích, những cảnh tượng hung bạo và không được xem kịch tuồng, sách truyện bi lương, rùng rợn. Điều khá lý thú là ở Pháp, người ta cũng khuyên người phụ nữ không nên xem kịch, xem phim hay đọc tiểu thuyết. Khốn thay! phụ nữ hiện đại, phương Đông lẫn phương Tây không biết gì vè những tri thức khôn ngoan này, mà có biết chăng, họ cũng chẳng quan tâm hoặc cho là hủ lậu. Tuy nhiên, thai giáo rất là quan trọng mà những ai thật lòng mong muôn có con khoẻ mạnh hạnh phúc nên học tập.
Nhiều người phụ nữ khi có thai thường bị biến đổi khó chịu trong người như phù chân hoặc buồn nôn buổi sáng, nếu ăn uống đúng đắn theo phương pháp Thực Dưỡng sẽ tránh được tình trạng này. Tuy nhiên, đối với những người gặp phải trường hợp trở ngại như thế, phương pháp Thực Dưỡng vẫn có phương điều trị theo nguyên lý quân bình Âm Dương.
Trong trường hợp phù chân, ngoài việc ăn uống đúng đắn, có thể áp dụng nước gừng nóng (xem cách làm trong sách “Ăn Gạo Lứt Muối Mè” của Ngô Thành Nhân) lên chân ngày 2-3 lần
Nếu bị buồn nôn sáng, ngoài việc ăn uống đúng đắn, thì tuỳ theo khí chất của người phụ nữ để trị liệu. Nếu khí chất là Âm (da trắng nhợt, người mát lạnh, mạch nhảy chậm, không thích tắm rửa nước nóng, nói năng và cử chỉ chậm chạp), có thể ưống phục long can (cách làm xem sách “Phương Pháp Thực Dưỡng” của Ngô Thành Nhân). Nếu khí chất là Dương (da đỏ hồng, dễ cáu giận, thích tắm nước nóng, mạch nhảy nhanh) có thể uống nước cam vắt (nguyên chất) độ 1 tách nhỏ mỗi ngày.
(Xem cách làm các món ăn thức uống trong sách Nghệ Thuật Nấu Ăn Vui Khỏe của bà Diệu Hạnh )
Ốm nghén là một hiện tượng trái tự nhiên
(Hương Kiều – quybaba.blogspot.com)
Sinh lý học hiện đại giải thích ốm nghén là phản ứng của cơ thể người phụ nữ đối với các nội tiết tố của thai kì, điều này nghe như là cơ thể của người mẹ bài xích sự xuất hiện của đứa con vậy, thật chả ra làm sao. Trên thực tế vẫn có người phụ nữ không ốm nghén, có người ốm nghén một đến ba tháng đầu rồi bình thường trở lại, có người ốm nghén tới tận lúc sinh, ở mức này thì các bác sĩ còn giải thích được là tùy cơ địa của từng người mà phản ứng nặng nhẹ và thời gian để thích nghi với các nội tiết tố thai kì khác nhau. Nhưng khi một phụ nữ có thời gian nghén khác nhau trong hai lần mang thai, nhất là nếu lần mang thai sau lại nghén nặng hơn lần mang thai trước thì lý thuyết về nội tiết tố thai kì đành bó tay không giải thích nổi. Triệu chứng thường thấy của chứng ốm nghén là hiện tượng váng vất, nôn nao trong người, buồn nôn, có thể nôn khan, nhạt miệng, ở một số người tình hình trầm trọng đến mức chán ăn hoặc ăn gì nôn ra cái ấy. Trong tất cả các trường hợp này, một quả mơ muối lâu năm có thể tạm thời làm ngừng ngay mọi triệu chứng khó chịu vì nó thu hút chất khoáng trong cơ thể đến kiềm hóa vùng miệng và ống tiêu hóa đang bị dư axit rất nhanh chóng. Ốm nghén nếu xét cho đến cùng chẳng là gì khác ngoài triệu chứng dư axit máu, ừ thì nội tiết tố thai kì có thể là thủ phạm làm tăng nồng độ axit máu thật, nhưng axit không thể tự nhiên sinh ra, cũng không thể tự nhiên mất đi, nó chỉ có thể theo thức ăn đi vào, theo chất thải đi ra và được chuyển giao từ nơi này qua nơi khác trong cơ thể. Theo quan điểm Thực dưỡng, xuất phát điểm của tất cả những hiện tượng đó đều là những sắp xếp của tự nhiên để đảm bảo tối ưu cho sức khỏe của bé trước lúc ra đời.
Hiện tượng tăng axit này các bác sĩ Tây y đã biết từ lâu, nhưng việc đối trị nó thì họ khá lúng túng, bởi như tôi đã nói khá rõ ở phần “rối loạn kinh nguyệt”, việc bổ sung canxi từ thuốc để kiềm hóa dòng máu có thể gây tác dụng phụ như vôi hóa cột sống, gút hay viêm khớp… nếu không đi cùng việc thay đổi ăn uống để triệt để loại bỏ những loại thức ăn có khả năng tạo ra axit vô cơ, vì các gốc axit vô cơ sẽ tạo kết tủa khi gặp canxi trong cơ thể, cuối cùng gây ra bệnh. Các thực phẩm giàu chất đạm nhưng không đủ 8 axit amin cơ bản, thiếu các khoáng chất cần thiết để tạo ra các phức hợp khoáng- protein sẽ không được tế bào tiếp nhận nếu không có biện pháp gì để chủ động bổ sung cho nó những thành phần thiếu hụt, cuối cùng bị oxi hóa tạo ra các gốc axit vô cơ trong cơ thể, do đó không phải cứ thức ăn giàu chất đạm đã là tốt, là bổ dưỡng. Sữa bột dinh dưỡng có bổ sung canxi và các axit amin thì an toàn hơn cốm canxi và giúp làm giảm axit máu nên hiện tượng nhiều thai phụ đang ốm nghén không thể ăn nổi thứ gì ngoài sữa bột dinh dưỡng là có cơ sở khoa học. Nhưng lạm dụng sữa bột kiểu này không giải quyết tận gốc vấn đề, loại thực phẩm này hơi âm, chúng làm dịu bớt các phản ứng thải độc gây dễ chịu tức thời, nhưng lại chuyển các phản ứng thải độc từ vùng cơ thể cao xuống vùng cơ thể thấp hơn nên tăng nguy cơ nhiễm độc thai nghén, hơn nữa làm thai nhi trở nên rất to khiến việc sinh nở tự nhiên trở thành quá đau đớn và khó khăn, có đứa trẻ mới sinh ra đã mọc răng cửa, không chỉ do người mẹ đã dùng quá nhiều canxi mà còn do việc sử dụng thực phẩm âm đều đặn đã rút ngắn quá trình trưởng thành, cho nên không phải vô cớ mà người Phương Đông xưa hoảng sợ khi đứa con mới sinh đã có răng trong miệng, nếu tiếp đó cha mẹ không có biện pháp chấn chỉnh gấp chuyện ăn uống cho con thì đứa trẻ sẽ biết đi sớm, do năng lượng sớm được dồn xuống chân thay vì chảy lên đầu nuôi dưỡng não bộ, lớn lên đầu óc đứa trẻ sẽ chậm chạp (tồ) hơn bạn cùng lứa, có dáng vóc thô kệch và phát dục sớm, đương nhiên, trưởng thành sớm luôn đi đôi với lão hóa sớm nên những người giỏi tướng pháp nhất cũng khó lòng tìm thấy ở những đứa trẻ này lấy một tướng thọ.
Các thực phẩm giàu khoáng chất mà Thực dưỡng khuyên dùng dương hơn sữa bột dinh dưỡng nên giúp thai nhi lớn lên bình thường và sinh ra khỏe mạnh hơn, tuy nhiên, nếu trước đó người mẹ đã có các triệu chứng ốm nghén thì hiện tượng phù nề vẫn rất khó tránh. Một khi người phụ nữ đã ốm nghén, tức là đã có nhiều axit trong máu, thì việc trung hòa các axit này bằng các chất khoáng bổ sung thêm phải lấy đi của cơ thể các phức hợp vitamin B, do đó làm tích nước trong các tế bào gây ra phù nề. Các vi khuẩn lên men lactic ở ruột già tổng hợp các vitamin này, nhưng chúng chết rất nhiều nếu trước đó thai phụ đã ăn nhiều món ăn làm ngọt bằng đường và tẩm bổ bằng thịt cá. Nguồn hay nhất để bổ sung các vi khuẩn này là tương lâu năm, tiếp đó là dưa muối nén đã ngấu kĩ. Nên bỏ hẳn đường và mì chính, còn thịt cá thì càng ít dùng càng hay, tốt nhất chỉ dùng loại cá thịt trắng nhỏ, có thể kho rục với tương là loại gia vị có đủ các axit amin cơ bản, vừa để ăn được cả xương, vừa tăng hấp thu đạm chất. Trên thực tế, đạm thực vật lấy từ vỏ cám gạo lứt, vừng và các loại đậu hạt hoàn toàn đủ khả năng thay thế chất đạm động vật trong bữa ăn hàng ngày mà lại không sợ gây ra dư thừa axit amin do tỷ lệ axit amin trong chất đạm của chúng gần với tỷ lệ axit amin trong chất đạm của cơ thể người hơn và có đủ các loại axit amin mà cơ thể không tự tổng hợp được.
Lý do đầu tiên làm tăng axit máu là nhu cầu canxi tăng mạnh trong thai kì để tạo xương và răng cho thai nhi đang lớn lên từng ngày, khiến độ pH trong máu người mẹ giảm thực ra không mang tính quyết định. Cơ thể người mẹ có rất nhiều canxi dự trữ trong xương và răng, người phụ nữ có hàm răng càng đẹp thì dự trữ canxi càng lý tưởng. Những người có dự trữ này càng kém thì càng bị các thức ăn giàu canxi hoặc làm tăng hấp thu canxi thu hút mãnh liệt, phổ biến nhất là hiện tượng thích ăn chua (vì các axit hữu cơ giúp tăng hấp thu canxi), nhiều trường hợp thai phụ ăn cả gạch non, vôi tường, đất vách. Cho nên khả năng thiếu canxi chỉ có tác động rất nhỏ.
Lý do thứ 2, cơ thể phụ nữ hàng tháng đều dương dần lên, sau đó xuất hiện hiện tượng chảy máu kinh là sự thoát dương để tái lập trạng thái cân bằng của cơ thể. Sự dương hóa tập trung mạnh mẽ ở khu vực tử cung này mỗi tháng một lần là để chuẩn bị cho bào thai rất âm một môi trường thuận lợi vì âm đẩy âm (nên những phụ nữ ăn uống quá âm, liên tục bị đau bụng khi thấy tháng, rong kinh và có khí hư thì dễ chửa ngoài dạ con, xảy thai hoặc sinh non) và dương hút âm (nên hợp tử di chuyển từ vòi trứng xuống, mới bị thu hút về tử cung rồi yên vị ở đó) Nếu người phụ nữ không thụ thai thì máu kinh chảy ra sẽ mang bớt đi những vật chất dương. Nói cách khác, với 9 tháng tắt kinh khi mang thai, cơ thể người đàn bà khi mang thai càng ngày càng trở nên dương hơn.
Cũng do sự dương hóa mạnh mẽ này, nếu trong cơ thể người đàn bà có tồn đọng các loại độc tố thì hiện tượng ốm nghén sẽ xảy ra. Dòng máu rất dương (thể hiện dưới dạng vật chất là sự xuất hiện thêm các nội tiết tố thai kì) thu hút các độc tố âm tồn đọng ra khỏi các cơ quan bộ phận để tống xuất ra ngoài khiến đại đa số thai phụ cảm thấy váng vất buồn nôn, thậm chí có người phát sốt hay nổi mẩn, mụn. Đó là lý do nếu đã ăn chay trước khi thụ thai như đề xuất của tôi ở mục 1, thai phụ sẽ không bị ốm nghén vì trước khi thụ thai cô đã đào thải truớc các độc tố trong cơ thể ra rồi. Hãn hữu cũng có những phụ nữ chẳng ăn kiêng như nói trên mà vẫn không ốm nghén, thông thường họ thuộc tạng rất dương và có thận khí mạnh mẽ (đôi tai to, dày có thùy châu và vành tai ép sát vào hộp sọ, sống mũi cao vừa, xương khớp vững chãi, linh hoạt, hàm răng chắc chắn, men răng trắng đẹp, môi nhỏ nhắn tươi hồng, mái tóc đen thẳng…) Ngày thường họ tự nhiên đã dùng ít thịt cá (vì chúng quá dương mà cùng dấu thì đẩy nhau) và ưa vận động do luôn dư thừa sức sống, những người này cũng thường đẻ toàn con trai. Tuy nhiên, mẫu phụ nữ như mô tả trên giờ rất hiếm trong xã hội, những đặc điểm vừa mô tả ở họ chính là những tướng vượng phu ích tử điển hình trong nhân tướng học Phương Đông.
Đây chính là cơ chế của tự nhiên để bảo đảm cho những sinh mệnh chưa ra đời một môi truờng sống thuận lợi nhất có thể, các độc tố (là âm) cần đào thải ra hết khỏi các cơ quan nội tạng để chúng làm việc hiệu quả hơn, đảm bảo sức khỏe lý tưởng cho thai phụ và đứa con, nên cổ nhân mới có câu: “Hữu thai vô bệnh”. Do cơ thể người mẹ rất dương, các phản ứng thải độc thường diễn tiến trên các bộ phận có liên hệ với phần cao của cơ thể như bụng trên, ngực, vùng da ở mặt và hai tay nên ít gây ảnh hưởng đến thai, trừ phi cô ta dùng những thực phẩm quá âm như đường, gia vị hóa học, thuốc tây, một số loại rau trái như cà, măng tây,giá đỗ, nấm… khiến phạm vi của các phản ứng chuyển xuống vùng cơ thể thấp như bụng dưới và chân gây ra nhiễm độc thai. Ví dụ về nhiễm độc thai nhẹ dễ thấy nhất là thuốc kháng sinh sẽ làm đứa trẻ sinh ra yếu chức năng thận nên sau này hàm răng bị đen xỉn bẩm sinh, một số hậu quả khác khó thấy bằng mắt thường hơn, như chứng ra mồ hôi trộm do chức năng thận kém, tính khảnh ăn do tỳ vị kém… Hoặc chỉ riêng việc thai nhi bị âm hóa dần thành một đứa bé tạng âm cũng đủ làm tổn hại cả cuộc đời phía sau của nó. Đấy là nguyên nhân chính khiến những phụ nữ càng có tuổi sinh con càng dễ gặp tai biến, vì càng có tuổi phụ nữ càng có khuynh hướng ăn uống âm hơn. Người mẹ sau đó hoàn toàn cảm tính nuôi dưỡng con bằng những thức ăn bà ta thấy tốt cho bản thân, nhưng thực ra lại không tốt cho sự phát triển bình thường của một đứa trẻ, giáo sư Ohsawa cho biết, đàn bà có tuổi mới sinh con mà trực tiếp nuôi dạy thì đứa bé hỏng 30%, một đứa bé sau khi sinh mà giao ngay cho bà của nó nuôi dạy thì hỏng 70%.
Nhưng tai hại nhất là trường hợp cơ thể người mẹ trước lúc thụ thai có quá nhiều chất độc, hơn nữa lại quá âm (đã biểu hiện từ trước khi mang thai, hoặc do chế độ ăn uống sai khi mang thai, hoặc do dùng thuốc tây để kìm hãm những phản ứng thải độc quá mạnh…) khiến cho những phản ứng thải độc này xảy ra cả ở vùng cơ thể thấp, gây nhiễm độc thai cuối cùng gây ra tình trạng thai chết lưu ở những phụ nữ ăn lẫn lộn những thực phẩm quá âm và quá dương hoặc sẩy thai ở những phụ nữ ăn quá âm. Trong bộ phim “Nàng Đê Chang Kưm” rất được hâm mộ ở Việt Nam có cảnh các thần y bốc cho hoàng hậu hai thang thuốc khác nhau khi bà ta đang nguy kịch vì thai chết lưu, thang thứ nhất rất âm để cơ thể nương theo đó tự đẩy cái thai ra, thang thứ hai rất dương để giúp cơ thể loại bỏ những tác động tai hại của thang thứ nhất, chứ họ không làm một thao tác nạo hút mổ xẻ nào cả. Thang thuốc rất âm đó ngày xưa còn được các thầy lang thất đức và dốt nát với thứ kiến thức y dược nửa vời, đầu thừa đuôi thẹo bốc cho những phụ nữ muốn phá thai, nó âm hóa dữ dội vùng bụng và tạo ra những cơn đau quặn như xé người, gấp trăm lần cảm giác đau bụng hành kinh trước khi bánh nhau tự bong tróc và bị tống ra, nhiều người đàn bà phá thai theo cách này đã chết vì băng huyết do không cầm được máu bởi thiếu thang thuốc dương thứ 2.
Còn sự tai hại thứ nhì là sự thiếu hiểu biết của thai phụ và những người thân, càng thấy cô ốm nghén khổ sở, càng cố tìm những thứ nem công chả phượng để “tẩm bổ” cho cô khiến tình trạng dư axit càng trở nên tệ hại hơn, hơn nữa do những thực phẩm âm làm dịu phản ứng thải độc nên dễ bị những người quá khổ sở vì ốm nghén lạm dụng, cuối cùng hậu quả sẽ là cô ta không giữ nổi đứa con và suy sụp cả về sức khỏe lẫn tinh thần, ở những ca nhẹ hơn một chút, những phụ nữ ăn uống quá âm sẽ sinh non, còn những phụ nữ ăn uống đủ dương phải mổ lấy con ra do tình trạng nhiễm độc thai nghén đã lên tới mức gây nguy hiểm cho tính mạng của cả mẹ và con, nhẹ nhàng nhất trong các loại biến chứng do bồi dưỡng sai lầm này là thai phụ sẽ ốm nghén cho tới tận ngày sinh mới ngừng, còn cháu bé sinh ra đương nhiên là rất yếu và quấy khóc phát sợ.
Để giải quyết trường hợp ốm nghén nặng này, việc đầu tiên là phải giải tỏa cái tâm lý “Cô ấy không thể ăn được cái gì! Cứ ăn vào là nôn ra.” của thai phụ và những người thân. Đúng là cô ấy không ăn được, nhưng chỉ là không ăn được những thứ thịt thà bổ béo mà người thân cất công sửa soạn hàng ngày, do chúng tạo ra quá nhiều axit trong máu. Quấy chín ít bột sắn dây với nước thành một thứ dung dịch lỏng sánh, thêm vài thìa dấm mơ (thứ nước cốt chảy ra trong khi nén mơ và muối trong vại, càng lâu năm càng tốt) và mấy giọt tương rồi cho thai phụ uống nóng sẽ làm hết cơn nôn nao rất nhanh. Ngậm quả mơ muối lâu năm là cách làm cơ thể dễ chịu rất nhanh nhưng tốt hơn là không dùng vì trong trường hợp không kịp bổ sung thêm khoáng chất, răng sẽ dần yếu đi khiến việc nhai nghiền thức ăn bị ảnh hưởng. Người mẹ ăn uống nhác nhớm không ngon lành thì không thể tạo ra loại sữa tốt, chưa kể đến lúc phải mớm các thức ăn dặm và cơm cho trẻ sau này. Phần ăn uống hàng ngày tương tự như các thai phụ Thực dưỡng khác, sẽ được nói chi tiết hơn ở chương II. Nhưng về tổng quan, bữa ăn hàng ngày nên có khoảng 60% là gạo lứt muối vừng, phần còn lại là các loại rau đậu, rong biển, quả và hạt, cá thịt trắng kho rục với tương để ăn được cả xương, có thể kho kèm ngưu bàng hay củ cải xắt cục và đậu phụ rán. Như tôi đã nói, đạm thực vật từ gạo lứt, vừng và đậu đỗ hoàn toàn đủ đáp ứng nhu cầu cơ thể, nên nếu bạn không muốn đứa con của mình có cái mũi tẹt thì nhớ ăn cá vừa phải thôi. Nước uống hàng ngày tốt nhất khi ốm nghén là trà gạo lứt rang trộn với trà bancha và ít dấm mơ muối hãm trong bình thủy, nhưng nên ngừng dùng ngay khi các triệu chứng ốm nghén đã dứt vì thứ đồ uống này tuy cung cấp cho cơ thể nhiều chất khoáng nhưng rất dương, có thể khiến thai phụ đâm thèm những thứ thực phẩm thặng âm có hại cho thai nhi, và nếu dùng gần ngày sinh có thể gây mất sữa. Chỉ cần ngưng đưa thêm các thực phẩm tạo nhiều axit vào cơ thể và đối trị thích hợp, hiện tượng ốm nghén sẽ chấm dứt rất mau. Tuy một phụ nữ có thai ăn cho hai người thật, nhưng không cần phải lo nghĩ nhiều về chuyện thiếu chất khi ăn uống theo các lời khuyên “bớt thịt cá trứng sữa đi” của Thực dưỡng vì “người còn lại” rất biết đòi hỏi, nếu thiếu những chất bé cần thì dù chất đó có trong đất vách người mẹ cũng tự nhiên thấy thèm đất vách. Còn nếu người mẹ có thể ăn uống bình thường, ngon miệng, không thấy mình yếu đi, cũng không thèm muốn thứ gì kì quái, bớt dần rồi hết hẳn ốm nghén có nghĩa là bữa ăn hàng ngày của cô đã có đủ hoặc thừa những thứ bé cần rồi.
Rong biển và vừng là hai loại thực phẩm rất dồi dào khoáng chất, lại tốt cho việc tạo sữa sau này, ngoài ra, mỗi ngày nên ăn một hai gắp dưa muối nén, muối từ loại rau sạch có nguồn gốc đảm bảo, đồng thời năng vận động nhẹ như đi lại trong nhà, hay lên xuống cầu thang chậm rãi sẽ tốt hơn là để người khác đấm bóp, vì vừa làm lưu thông khí huyết, vừa chống được hiện tượng phù nề về sau. Thường xuyên nấu các thực phẩm như bí ngô, cà rốt, củ cải, củ sen, củ ngưu bàng, đậu đỏ hạt nhỏ, đậu đen, vừng, kê, ý dĩ vừa để giúp quá trình giải độc diễn ra thuận lợi, vừa để lợi sữa sau này, hiện tượng ốm nghén sẽ nhanh hết. Và tốt nhất là chuyển ngay sang ăn gạo lứt và tìm mua loại tương đã để ngấu trên 8 tháng để làm nước chấm và đồ nêm thức ăn, vì thai phụ lúc này rất “dễ dị ứng” với thịt, nếu ăn nhiều sẽ buồn nôn ngay, do đó phải ăn gạo lứt thay vì gạo trắng để chặn ngay từ đầu nguy cơ suy dinh dưỡng do thiếu đạm. Vỏ cám gạo lứt không nhiều đạm chất bằng thịt cá, nhưng có đủ 8 axit amin cơ bản nên nó giúp tăng hấp thu lượng chất đạm ăn vào, tương và đậu phụ đều làm từ đậu nành, là nguồn đạm thực vật dồi dào, nhưng tương là sản phẩm đậu nành lên men nên dễ tiêu hóa hơn, trong khi đậu phụ rất khó tiêu, nên phải nấu lâu và kĩ trước khi dùng. Cách làm đậu phụ của Nhật Bản là dùng nước cốt muối, một thứ dung dịch rất dương để làm đậu phụ rất âm kết dính, còn cách làm đậu phụ ở nước ta lại dùng nước chua cực âm, đến mức ngay cả chất đạm trong đậu phụ vẫn là dương so với nó để làm chất kết dính, nên phải ép cho ráo nước trong miếng đậu trước, hoặc tốt hơn là không dùng vì nó quá âm. Nếu vẫn còn lo thiếu chất đạm thì xem thêm cách làm natto (loại tương sổi của Nhật lên men từ đậu nành). Về rong biển, có thể khử dễ dàng mùi tanh của rong biển bằng gừng nạo, sau đó nấu canh hoặc xào chung với các thứ rau củ khác. Rong biển phổ tai nếu nấu chung với đậu đỏ và ít muối biển rang cho ra một vị ngọt đặc biệt, loại nước dùng này trong Thực dưỡng sau đó thường được nấu thêm hoặc với bí đỏ hoặc với cà rốt và hành tây để tạo thành một món ăn ngon, giúp giải độc và làm tăng cường sức sống. Tuyệt đối không dùng các thực phẩm có đường và mì chính vì chúng làm mất đi sự ngon miệng tự nhiên, đồng thời lấy mất các vitamin B dự trữ, do đó là một nguyên nhân gây phù nề và làm thai phụ mất tự chủ trước những đồ ăn, thức uống có thể có hại cần kiêng khem.