Thực Dưỡng ・ Ẩm Thực Việt Nam ・

Câu Chuyện Đôi Đũa Việt

Anh Yu 22 Thg 10

XEM NHANH

    Đôi đũa mộc mạc đã xuất hiện trên mâm cơm người Việt không biết từ bao giờ và trở thành nét đẹp truyền thống trong ẩm thực Việt. Đũa có đôi và phải tương xứng với nhau và với mâm với bát như âm với dương, như nam với nữ.

    Người Việt ở ba miền đều mang trong mình những phong tục tập quán riêng, nét văn hóa mang bản sắc vùng miền. Khắp đất nước người dân đều sử dụng đũa trên mâm cơm để gắp thức ăn, đây quả thực là sợi dây liên kết kỳ lạ. Lâu dần đôi đũa không còn chỉ là thói quen hàng ngày, mà nó đã trở thành vật dụng không thể thay thế được trong mâm cơm người Việt. Bởi nó không chỉ đơn thuần là vật dụng dùng để gắp thức ăn trong bữa cơm hàng ngày mà còn thể hiện nét đẹp văn hóa và bản sắc tốt đẹp của người Việt.

    Chất liệu làm nên đôi đũa cũng rất phong phú và đa dạng, từ chất liệu kim loại (vàng, bạc, nhôm….) thường được vua chúa, quan lại thời xưa sử dụng để phân biệt giai cấp, hay đến các loại chất liệu là nhựa, thiên nhiên (tre, trúc….). Những chiếc đũa bằng tre, trúc gắn liền với văn hóa ẩm thực của Việt Nam, với đời sống thường nhật của người Việt, cũng bởi một phần lý do biểu tượng của làng quê Việt chính là hình ảnh của cây tre, cây trúc.

     

    Theo nhiều nhà văn hóa giải thích thì cách người châu Âu sử dụng dao, dĩa, là cách ăn bắt chước những loài vật ăn thịt sống dưới đất. Còn cách sử dụng đũa trên bàn ăn của người châu Á, trong đó có người Việt là học cách ăn của những loài chim. Việt Nam là đất nước nhiệt đới, là nơi thích hợp cho các loài chim sinh sống như sếu, vạc, cò…. Những loài chim này gắn bó với cuộc sống của người nông và đi vào trong những bài hát, những câu ca dao, đồng dao, trở thành hình tượng khắc trên trống đồng, biểu tượng của nền văn hóa cổ đại. Chính nhờ những mối liên hệ như thế, đôi đũa đã xuất hiện trên mâm cơm của người Việt và trở thành nét đẹp văn hóa mà người Việt vô cùng tự hào.

     

    Đôi đũa nhỏ xinh, mộc mạc và giản dị đã đi vào văn hóa của người Việt từ thời xa xưa. Và nó cũng mang trong mình ý nghĩa khác nhau, những triết lý về đời sống con người từ lúc sinh ra cho đến khi trở về với đất mẹ, về mối quan hệ vợ chồng. Dù cho đời sống văn hóa ẩm thực ngày càng trở nên đa dạng với sự du nhập của các loại đồ ăn đến từ khắp nơi trên thế giới, nhưng người Việt chúng ta vẫn giữ gìn và tô đẹp hơn cho hình tượng đôi đũa trong mâm cơm gia đình, trong văn hóa ẩm thực của dân tộc.

    Người Việt ba miền đều có riêng cho mình nét văn hóa ẩm thực độc đáo, riêng biệt nhưng có một điểm chung là đều sử dụng đũa. Làng quê miền Bắc xưa được lũy tre bao phủ nên người dân sẽ lấy nghe thân tre già để gọt đũa. Người miền Bắc dùng loại đũa ngắn hơn một chút so với người miền Nam. Miền Nam lại được chở che bằng những tán dừa nên người miền Nam dùng chính loại cây ấy làm nên đôi đũa cho mình. Điều đó làm đũa Việt Nam khác biệt hoàn toàn với loại đũa inox, đũa nhôm của Hàn Quốc, Nhật Bản.

    Trong khi người phương Tây lúc ăn phải dùng một bộ đồ ăn gồm dao, thìa nĩa, mỗi thứ thực hiện một chức năng riêng biệt, thì người phương Đông (Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam..) chỉ dùng một đôi đũa (gồm hai chiếc que làm thành) nhưng sử dụng một cách tổng hợp và cực kỳ linh hoạt với hàng loạt chức năng khác nhau: gắp, xé, và, dầm, trộn, vét… Đứng ở góc độ vật lý, thì đôi đũa là một thứ công cụ chấp dài thêm ngón tay người và được vận dụng theo nguyên lý đòn bẩy một cách thần tình để gắp thức ăn xa. Về nguồn gốc đôi đũa, lâu nay không ít học giả phương Tây cho rằng văn minh đôi đũa (civilization des baguettes) là thuộc dạng Trung Hoa. Tuy nhiên, theo sách Lịch sử văn hóa Trung Quốc do Đàm Gia Kiện chủ biên năm 1993 thì người Trung Quốc “Thời Tiên Tần không ăn dùng đũa, mà lấy tay bốc” (giống người Ấn Độ – đó là tập quán của các cư dân trồng kê, mạch, ăn bánh mì, bánh bao và thịt). Họ chỉ bắt đầu dùng đũa từ khi thôn tính phương Nam (đời Tần – Hán), ban đầu dùng một cách hạn chế để gắp thức ăn cứng từ các món canh, mãi về sau đôi đũa mới trở thành phổ biến. Thế kỷ VI, đôi đũa mới du nhập vào Nhật Bản. Như vậy, thực ra, nó là sản phẩm của cái nôi trồng lúa nước Đông Nam Á – nơi có nền văn minh tre trúc là vật liệu. Ăn bằng đũa là cách ăn đặc thù, mô phỏng động tác của con chim nhặt hạt, xuất phát từ thói quen ăn những thứ không thể nào dùng tay bốc hoặc mó tay vào được (như cơm, cá, nước mắm,…) của cư dân Đông Nam Á.

    700x500 stacking chopsticks

    Điều này, lý giải vì sao ở người Việt, từ danh gia vọng tộc đến kẻ bần hàn, từ thành thị đến nông thôn, đôi đũa tre đơn sơ mộc mạc vẫn luôn gắn liền với đời sống hằng ngày, thậm chí đã trở thành một đặc điểm văn hóa không kém gì tà áo dài duyên dáng… Thật vậy, đôi đũa đối với người Việt đã vượt qua các phạm vi vật chất vô cùng nhỏ bé, khiêm nhường, vượt qua cả cái ý nghĩa, tập quán ăn uống thông thường để trở thành hình tượng sinh động, công cụ sắc bén trong diễn đạt những quan niệm về nhân sinh, nhân tình thế thái. Hay nói khác hơn, nó đã hình thành “triết lý đôi đũa” ở Việt Nam.

    12085996815 a7e6df1350 o
    Trước khi có mặt trên tem thì chỉ cần làm phép thống kê đơn giản (từ tuyển tập ca dao, tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam) sẽ được một tập hợp khá thú vị về hình tượng đôi đũa – phản ánh nhiều chiều cạnh của triết lý nhân sinh. Bản tính, phong cách của người Việt vốn cẩn trọng, chu đáo, tế nhị. Từ tấm bé, cầm đôi đũa là khắc biết “so” để “sánh” cho bằng, ngay thẳng, đôi nào ra đôi ấy, đầu nào ra đầu nấy. Việc nhỏ nhặt ấy cứ ăn sâu vào tâm thức, ý thức để rồi lớn lên vào đời trở thành người ý tứ, biết suy nghĩ, nói năng, hành xử “ra đầu ra đũa”. Trong đối nhân xử thế, lối nhìn nhận sự việc, đánh giá con người một cách hồ đồ, thiếu quan sát, không cân nhắc phân biệt, cứ “vơ đũa cả nắm” là vô cùng tai hại, hậu quả không lường. Đặc biệt là triết lý về lứa đôi, hình tượng đôi đũa đã thể hiện khá tròn vai. Thật là éo le, khốn khổ, day dứt trong cảnh: “Bây giờ chồng thấp vợ cao, như đôi đũa lệch so sao cho bằng”. Muốn cho hạnh phúc lứa đôi, vợ chồng không chỉ phải môn đăng hộ đối, đồng cảnh đồng tình giữa hai nhà, hai họ: “Xứng đôi vừa lứa, chọn nơi. Hay gì đũa mốc đòi chòi mâm son”. May mắn và hạnh phúc biết bao khi “Hai ta làm bạn thong dong, như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng”. Có người cho rằng, viết “đũa mộc” thì đúng hơn “đũa mốc”. Với lập luận: “Mộc” và “Mốc” là hai trạng thái, hai phẩm chất hoàn toàn khác nhau. Người Việt vốn bản tính chất phác, nhân hậu, trong sinh hoạt thường nhật thích dùng đồ “mộc”, không ưa son, nhuộm, tô điểm, màu mè. Đặc biệt với đôi đũa là thứ đồ dùng đơn giản nhất, ai cũng có thể tự túc làm được từ “cây nhà lá vườn”, nên đũa mộc là tốt nhất. Nó phù hợp với tâm lý thực tế, trọng thực chất của các đồ gia dụng ở người Việt. Nhưng ở quan niệm khác thì cho rằng, việc sử dụng từ “đũa mốc” – mâm son mới đủ sức lột tả sự trái khoái ngược đời, để chỉ sự không xứng đôi vừa lứa (về tài sắc, của cải, địa vị, tuổi tác,..) của từng đôi “Mốc này đâu ngại chọc mâm son/ Mốc đành chịu vậy, chẳng đòi mâm son”,…

    Không chỉ trong văn học dân gian, mà tiếp mạch nguồn cảm xúc truyền thống đó, đôi đũa lại xuất hiện trong thơ ca hiện đại, với nhiều hình ảnh sinh động mới mẻ: “Bếp tập thể đậu kho và rau luộc, Em gắp cho tôi bằng đôi đũa cau rừng” (Phạm Tiến Duật). Đặc biệt, động tác so đũa đã cho ta thưởng thức nhiều tứ thơ hay cảm động: “…Bữa ăn sum vầy bên bếp lửa, Mẹ so đũa thừa lại nhớ đến ta” (Thu Bồn).

    bo+dua.php

    Bên cạnh tính cặp đôi mà hình tượng đôi đũa thể hiện thì nó còn phản ánh tính tập thể: bó đũa là biểu hiện của sự đoàn kết, của tính cộng đồng (trong câu chuyện dân gian về bó đũa chỉ sự đoàn kết là sức mạnh). Đôi đũa còn là minh chứng của sự thiêng liêng, khi thề độc, người xưa thường bẻ gãy đũa để thề. Thậm chí khi chết đi, còn có đôi đũa cắm trên quả trứng, bát cơm đặt lên áo quan đưa tiễn người về nơi an nghỉ cuối cùng… Tất cả những điều này, khi đưa đôi đũa lên tem cũng tạo nên những sức mạnh, sự độc đáo của nó. Tem về đôi đũa không nhiều, người sưu tầm bắt gặp nó là nâng niu như báu vật.

     

    Đũa cả

    36770 20130926114437

    Người Việt thường có thói quen tự tay chế ra các vật dụng đơn giản trong gia đình bằng những nguyên liệu quen thuộc. Cũng giống như cái cuốc, xẻng… có cán được tạo nên nhờ gỗ của những thân cây quanh vườn, đôi đũa cả – vật dụng không thể thiếu trong bữa cơm gia đình người Việt được vót từ thân tre mộc mạc.

    Thời nay, con người được hưởng nền công nghệ tiên tiến với sự ra đời ồ ạt của các vật dụng hiện đại và vô cùng tiện ích trong gia đình. Những vật dụng đó làm giảm tải đi phần nào khó khăn mà con người gặp phải do quỹ thời gian chật hẹp. Và, nét đẹp trong bữa cơm hàng ngày của người dân Việt cũng vì thế mà không còn giữ nguyên vẹn. Bây giờ, người ta nấu nồi cơm điện nên ít dùng đến đôi đũa cả để xới cơm nữa. Thay vào đó, người ta dùng muôi nhựa. Cơm nấu nồi điện, bốc khói nghi ngút và kêu một tiếng “tách” để báo chín. Chỉ chờ có thế, người ta lấy luôn ra ăn. Có nhà lấy muôi đánh tơi cơm rồi múc vào bát cho mọi người, nhà thì không đánh tơi mà xấn luôn một khối, vừa muôi cơm và xúc vào bát.

    Tre được chọn làm đũa cả thường phải là tre già, nếu làm bằng tre non thì đũa cả sẽ không để được lâu và dễ bị mọt.

    Người Việt dùng đũa cả để đảo khi cơm sôi, để ghế cơm và để xới cơm nữa… Vật dụng quen thuộc, nhỏ bé, mộc mạc là thế nhưng chứa đựng trong nó không ít những triết lí sâu sắc về lễ nghi gia đình, về nếp nhà của mỗi người. Chả thế mà quan sát cách xới cơm cho các thành viên trong gia đình của các bà, các chị là thấy ngay được nề nếp, trật tự, sự lễ phép của con cái đối với bố mẹ, ông bà, của vợ đối với chồng…

    12533078463 393ac5c738 b

    – tổng hợp –

    dứa

    Anh Yu

    Xếp có ý. Chụp có tình [Đặt mua sách nấu ăn]

    Gửi

    Bài viết liên quan