Thực dưỡng thường có tác dụng chữa bệnh hiệu quả, nhưng cũng không phải là luôn luôn. Khi một người theo chế độ thực dưỡng nhưng thất bại, thường là do họ thiếu am hiểu và không thực hành đúng cách. Nhưng có rất ít lý giải và hiểu biết đầy đủ về nguyên nhân của những thất bại này.
Cách mọi người nhìn nhận một trường hợp thành công hay thất bại phụ thuộc phần lớn vào quan điểm của họ về thực dưỡng nói chung, và cách sử dụng thực dưỡng để chữa trị nói riêng. Trong thực tế, có bao nhiêu con người thì có bấy nhiêu cách áp dụng. Bài viết này xem xét ba phương pháp áp dụng thực dưỡng và những ảnh hưởng của chúng đến kiến thức về thực dưỡng và chữa trị. Hầu hết mọi người đều thực hiện một số biến thể hoặc tập hợp những phương pháp này. Bạn có thể tìm thấy lời giải thích đầy đủ về phương pháp chữa trị thực dưỡng trong cuốn sách của tôi (Carl Ferré): Essential Guide to Macrobiotics hoặc Essential Ohsawa
Áp dụng thực dưỡng như một “Chế độ ăn kiêng”
Đối với nhiều người, thực dưỡng đơn giản chỉ là một chế độ ăn kiêng. Cái gọi là “Chế độ ăn kiêng thực dưỡng cơ bản” đưa ra danh sách những thực phẩm có thể ăn, những thực phẩm cần tránh và những thực phẩm có thể sử dụng thỉnh thoảng. Ban đầu những danh sách này được khuyến nghị cho những ai bắt đầu tìm hiểu về những nguyên lý thực dưỡng. Qua thời gian, những danh sách này trở thành những “qui tắc”, và dần dà người ta càng ít tìm hiểu những nguyên lý cơ bản.
Phương pháp này có những ưu thế, vì nó giúp thực dưỡng trở nên dễ tiếp cận và dễ theo đuổi, chẳng cần phải động não gì cả, chỉ cần thực hiện theo “chế độ ăn kiêng tiêu chuẩn” cùng với những khuyến nghị về lối sống đi kèm và thế là mọi việc ổn cả. Rất nhiều người đang theo đuổi phương pháp này. Sự thực là khi tìm kiếm định nghĩa về thực dưỡng trên internet, ta sẽ thấy kết quả: “việc áp dụng hoặc lý thuyết về một thực đơn thực dưỡng”. Mặt trái của phương pháp này là việc thiếu am hiểu sâu sắc về nguyên lý, vì vậy không thể giải thích trong trường hợp kết quả không như mong đợi.
Nhiều người bắt đầu áp dụng thực dưỡng vì có bệnh tật nào đó. Họ mù quáng theo đuổi những danh sách thực phẩm trong các cuốn sách hoặc tìm gặp một tư vấn viên, người này sẽ điều chỉnh “chế độ ăn kiêng” dựa trên tình trạng của người bệnh. Cũng có những tư vấn viên thuyết phục người bệnh tìm hiểu các nguyên lý thực dưỡng để có kiến thức đầy đủ nhưng hầu hết bệnh nhân chỉ muốn biết phải ăn gì và ăn bao nhiêu.
Mỗi ngày 10% máu được tái tạo. Vì vậy nếu chúng ta ăn những thực phẩm tự nhiên (không bị biến đổi) với lượng vừa đủ và được nấu nướng hợp lý, toàn bộ máu sẽ được tái tạo trong 10 ngày. Chất lượng máu tốt hơn sẽ cải thiện chức năng các bộ phận và nhờ vậy sức khỏe cũng được nâng cao.
Phương pháp áp dụng “ăn kiêng” để chữa trị này tương tự như dược phẩm: đó là sử dụng một cơ chế máy móc để chữa trị triệu chứng – trong trường hợp này là sử dụng thực đơn thực dưỡng. Phương pháp này bị giới hạn bởi chế độ ăn và lối sống, vì chỉ những thực phẩm và những hoạt động được cho rằng có lợi cho hầu hết mọi người mới được cho vào danh sách. Nhưng người ta lại chỉ chọn một số thực phẩm mà họ ưa thích trong danh sách đó, hậu quả là sẽ dẫn đến tình trạng thực đơn nghèo nàn và thiếu dưỡng chất. Hơn nữa, người bệnh đã “bàn giao” sức khỏe của mình vào tay người khác – cho dù là tư vấn viên hay là một danh sách thực phẩm nào đó.
Khi người bệnh không có dấu hiệu cải thiện hoặc thậm chí tồi tệ hơn, họ sẽ đổ lỗi cho tư vấn viên hoặc “chế độ ăn kiêng”, nói cách khác là thực dưỡng không có tác dụng. Trách nhiệm đối với những trường hợp này do bởi những tài liệu thực dưỡng không rõ ràng, dẫn đến những mong đợi sai lầm từ bệnh nhân, và do những tư vấn viên không có đủ thời gian giải thích phương pháp chữa trị một cách đầy đủ. Những bệnh nhân mong muốn một phương pháp chữa trị triệu chứng một cách kì diệu và tức thời cần được huấn luyện kiến thức thật kỹ, hơn là những khuyến nghị bó buộc.
Nền tảng căn bản của chữa trị thực dưỡng nằm ở khái niệm cho rằng sức khỏe là điều kiện bình thường hiển nhiên của mọi sinh vật. Chúng ta sống được nhờ ăn uống. Dấu hiệu sức khỏe giảm sút thường bắt đầu từ bên trong khi chúng ta ăn những thực phẩm biến đổi được trồng hoặc chế biến với những hóa chất độc hại. Mỗi ngày 10% máu được tái tạo. Vì vậy nếu chúng ta ăn những thực phẩm tự nhiên (không bị biến đổi) với lượng vừa đủ và được nấu nướng hợp lý, toàn bộ máu sẽ được tái tạo trong 10 ngày. Chất lượng máu tốt hơn sẽ cải thiện chức năng các bộ phận và nhờ vậy sức khỏe cũng được nâng cao.
Mọi việc dường như rất đơn giản: chỉ cần ăn chủ yếu là ngũ cốc nguyên hạt và rau quả tươi, thật ít hoặc bỏ hoàn toàn thực phẩm từ động vật, tránh xa đường tinh luyện và các thực phẩm chế biến khác, hạn chế nước uống, và mọi việc sẽ ổn thỏa. Giá mà đơn giản như vậy! Vấn đề của phương pháp này là việc thực hành mà thiếu hiểu biết về nguyên lý là rất nguy hiểm. Cần phải tìm hiểu nguyên lý thực dưỡng trước khi bắt đầu áp dụng, hoặc ít ra là ngay ngày đầu tiên thực hành thực dưỡng.
Thực dưỡng như một triết lý
Những đệ tử của Ohsawa quan niệm thực dưỡng như một môn nghiên cứu về những nguyên lý vũ trụ. Ohsawa truyền bá về trật tự vũ trụ, đường xoắn ốc hướng tâm, nguyên lý thống nhất Âm – Dương, và các mức độ/giai đoạn suy xét để nâng cao hiểu biết và nhận thức. Các khuyến nghị về chế độ ăn thực dưỡng được xem như hướng dẫn ban đầu chứ không phải là những qui tắc “đánh nhanh thắng nhanh” để theo đuổi một cách mù quáng.
Mỗi cá nhân sẽ tự quyết định thực phẩm nào cần ăn (hoặc cần tránh) dựa trên điều kiện và mục đích của mình. Thực-dưỡng-triết-lý không chỉ là một phong cách sống. Mọi thực phẩm đều có thể sử dụng. Một người có thể chọn phương pháp thuần chay. Người khác có thể thêm vào thực phẩm động vật. Một người thuần chay lâu năm có thể ăn thịt khi cần thiết. Một người ăn thịt có thể chuyển sang thuần chay. Mọi việc đều có thể và đều “thực dưỡng” miễn là các nguyên tắc thực dưỡng được áp dụng.
Khi một người theo phương pháp thực dưỡng triết lý bị bệnh, họ áp dụng các nguyên lý thực dưỡng để quyết định cần thay đổi những gì. Việc gặp tư vấn viên thực dưỡng cũng tốt nhưng không quá cần thiết. Không có nhiều giới hạn về những việc cần làm. Ví dụ khi Michio Kushi phát hiện bị ung thư, ông sử dụng xạ trị như một phần của liệu pháp. Ông kiểm soát các trị liệu và kết hợp chúng với các biện pháp khác dựa trên kiến thức thực dưỡng.
Thực-dưỡng-triết-lý là việc cải thiện nhận biết để kiểm soát sức khỏe , bằng cách áp dụng các nguyên lý thực dưỡng. Một lợi thế của phương pháp này là có nhiều lựa chọn thực phẩm và hoạt động hơn. Bất kỳ thực phẩm nào giúp cải thiện sức khỏe đều có thể sử dụng, kể cả những thực phẩm trong danh sách cần tránh, miễn là các nguyên lý thực dưỡng được áp dụng.
Theo phương pháp thực dưỡng triết lý, các bệnh do chế độ ăn uống là kết quả của việc vi phạm trật tự vũ trụ do nhận biết sai lầm trong ăn uống. Cụ thể là do ăn quá Âm, quá Dương, cả Âm và Dương, hoặc quá nhiều thực phẩm tạo axit. Bệnh tật được xem như đồng hồ báo hiệu những sai lạc. Việc chữa trị rất đơn giản: ngừng vi phạm trật tự vũ trụ. Học cách nấu nướng thực dưỡng là việc làm cần thiết và giúp có thêm kiến thức về Âm và Dương.
Phương pháp này có vẻ phức tạp hơn phương pháp “ăn kiêng”. Triết lý tự nó không phức tạp nhưng việc áp dụng thì không dễ. Sức khỏe phụ thuộc trực tiếp vào mức độ hiểu biết và chính xác của người bệnh. Vì vậy khi bệnh tật thắng thế và việc chữa trị không hiệu quả, người bệnh không thể đổ lỗi cho ai ngoài chính mình. Rất ít người có thể làm được như vậy. Đổ lỗi cho thực dưỡng rằng nó quá phức tạp hoặc vì nó vô hiệu thì dễ hơn nhiều.
Cho dù một người hiểu lý thuyết thực dưỡng bao nhiêu đi nữa, nếu không qua thực hành thì kiến thức đó đều vô dụng. Nhiều huấn luyện viên thực dưỡng dù rất hiểu lý thuyết nhưng vẫn vi phạm trật tự vũ trụ. Và kết quả là tật bệnh. Không ai được miễn nhiễm. Ohsawa đã dự đoán được cái chết của mình trước đó ba năm. Nguyên do là vì ông cảm thấy mình đã vi phạm trật tự vũ trụ quá thường xuyên. Nếu không am hiểu thực dưỡng một cách trọn vẹn thì không thể hiểu được vì sao ông lại có những hành động như vậy.
Thực dưỡng như một kết nối
Trong cuốn Essential Ohsawa, George Ohsawa đã viết: “Mọi bệnh tật đều có thể chữa trị dứt điểm trong 10 ngày, theo quan điểm triết lý của tôi về thế giới và trật tự vũ trụ”. Tuyên bố này gây ra nhiều bối rối vì nó thường bị hiểu lầm. Theo quan điểm của Ohsawa, bệnh tật là thông điệp cho thấy một người đã quên mất nguồn gốc của mình. Về sau ông viết: “Sống thực dưỡng có thể chữa trị trong 10 ngày bằng cách thay đổi định hướng của cơ thể quay về sức khỏe”. Phép “chữa trị” đó đòi hỏi một sự thay đổi toàn diện về thái độ.
Ohsawa sử dụng thuật ngữ “sống thực dưỡng” để hướng nhận biết của chúng ta về cái Vô Hạn (Infinite), và rằng chúng ta chỉ là một hạt bụi mà thôi. Khi bệnh tật xảy đến, người áp dụng phương pháp này biết ơn bệnh tật và cố gắng hiểu rõ lời nhắc nhở này. Người bệnh tìm hiểu và nhận thức những sai lầm của mình và đi sâu hơn vào trật tự vũ trụ để kết nối với Vô Hạn. Việc chữa trị có thể xảy ra trong 10 ngày theo hàm ý tinh thần nhưng mất nhiều thời gian hơn để những thay đổi thể chất diễn ra.
Theo mức độ nhận biết rộng hơn, thuật ngữ “thực dưỡng” là một phương pháp thức tỉnh bản chất thực sự của con người. Sự nhận biết đó đến sau nhiều năm thực hành thực dưỡng “ăn kiêng” và tìm hiểu trật tự vũ trụ và các nguyên lý thực dưỡng khác. Khi mỗi người nhận thức được tự tính riêng biệt của mình, chính mối liên hệ với Vô lượng có giá trị to lớn nhất.
Một khi mối liên hệ/thống nhất được nhận biết, việc thực hành thực dưỡng trở nên bản chất thứ hai của con người. Một người có thể ăn bất kỳ thứ gì và bất cứ lúc nào họ muốn. Không có giới hạn gì cả. Mỗi người đều có tự do tuyệt đối và bất kỳ điều gì họ làm đều được xem như tự nhiên. Không có thất bại cũng không có thành công. Mọi người và mọi thứ đều “thực dưỡng” và kết nối với với điệu vũ Vô Hạn của cuộc sống.
Giá trị trong sự nhận thức này là niềm vui vô tận. Không còn nỗi sợ nào nữa khi mà con người nhận ra rằng không thể có điều gì sai lầm. Bất lợi chính của phương pháp này là phải mất đến 30 – 40 năm thực hành thực dưỡng và thiền, và không thể truyền khả năng tự nhận thức này cho người khác được. Mỗi người phải tự vươn tới mối liên hệ này bởi chính mình và cho chính mình.
Mối hợp nhất này dẫn tới sự chữa trị về tinh thần: sự nhận biết về cái tôi – mối liên hệ của chúng ta với Vô lượng Vô song. Mọi lời dạy thực dưỡng đều cần hướng con người đạt tới sự nhận biết này. Ohsawa có khả năng truyền cảm hứng này. Những ai gặp ông đều thay đổi mãi mãi. Kể từ khi ông qua đời, những phương pháp chữa trị thể chất và huấn luyện ngày càng phát triển rộng khắp hơn. Ngọn lửa thực dưỡng tinh thần cần được nuôi dưỡng mãi.
Tóm tắt
Thực dưỡng được thực hành theo nhiều cách đa dạng. Ba phương pháp trình bày trong bài viết này có thể được xem như ba mức độ: cơ bản, trung cấp và nâng cao. Hoặc nên xem chúng như ba phương diện vật chất, lý thuyết và tinh thần. Dù nhìn nhận theo góc độ nào, điều quan trọng là cần phải hiểu việc chữa trị thực dưỡng không phải là thuốc men. Nó là một phương pháp tiếp cận quá trình chữa trị hoàn toàn khác biệt.
Xét theo quan điểm thực dưỡng, bệnh tật được hiểu như mặt trái của sức khỏe. Bất kể một người đau ốm đến đâu, anh ta cũng có một phần sức khỏe nào đó. Ngược lại, mỗi chúng ta đều có một số bệnh tật. Dù chúng ta không hề nhận biết, hệ miễn dịch vẫn luôn bảo vệ chúng ta bằng cách chống trả các vi khuẩn có hại không ngừng nghỉ. Khi chúng ta nhận biết có bệnh tật, đó là dấu hiệu cần phải thay đổi để điều chỉnh từ ốm đau sang khỏe mạnh. Thực dưỡng “ăn kiêng” thay đổi trong chế độ ăn, thực dưỡng triết lý thay đổi trong lối nghĩ, và thực dưỡng tinh thần thay đổi trong thái độ.
Một chế độ ăn kiêng thực dưỡng cho phép cơ thể tự chữa lành bằng cách thải độc đố tích tụ do thực phẩm biến đổi được trồng hoặc chế biến với hóa chất. Vì vậy, phương pháp ăn kiêng thực dưỡng có hiệu quả đối với những bệnh do chế độ ăn quá độ, đặc biệt là quá nhiều độc tố. Các bệnh do những nguyên nhân như thiếu chất, bệnh cảm xúc hoặc tinh thần thì chỉ thay đổi chế độ ăn là không đủ.
Tôi có những người bạn đã theo đuổi thực dưỡng hết sức kĩ lưỡng, vậy mà vẫn thất bại. Có người đã gặp nhiều thầy dạy thực dưỡng, gặp cả Michio Kushi và Herman Aihara, nhưng không hề hiệu quả. Sau khi gặp nhiều bác sĩ nữa, cuối cùng anh ta tìm được một chuyên gia phát hiện ra anh bị chứng rối loạn xương rất hiếm gặp, và được chữa khỏi.
Trong một số trường hợp như vậy, phương pháp ăn kiêng thực dưỡng không luôn thành công 100%. Cũng có lúc bệnh tật thắng thế. Tuy nhiên nhìn rộng ra thì thực dưỡng có ý nghĩa nhiều hơn là một chế độ ăn và lối sống. Thực dưỡng toàn thể bao gồm mọi mặt của cuộc sống – bao gồm cả người bác sỹ đã chữa khỏi cho bạn tôi và cả liệu pháp mà ông sử dụng.
Nhiều người mong muốn có một biện pháp chữa trị thực dưỡng toàn diện nhưng chỉ thực hành thực dưỡng cục bộ. Mà thực hành thực dưỡng cục bộ chỉ có thể đưa đến việc chữa trị cục bộ.
Một phương pháp thực hành thực dưỡng toàn diện bao gồm các hướng dẫn về chế độ ăn, các nghiên cứu về triết lý và việc tọa thiền hàng ngày để kết nối với Vô Hạn. Bệnh tật hay sức khỏe, nỗi buồn hay niềm vui, xung đột hay hòa bình, tất cả đều được chấp nhận với lòng biết ơn đồng đều và được xem như những nhận thức tạm thời. Tất cả đều có thể biến đổi phụ thuộc vào hiểu biết và thực hành của chúng ta. Trong nhận thức lớn nhất về thực dưỡng và cuộc sống, mọi người đều thành công.
– “Thoughts on Macrobiotic Healing”, Macrobiotic Today Spring 2014, Carl Ferré –
Dịch thuật: Hiền Trần