Thực Dưỡng ・

Chuyện Phòng The & Âm Dương Ngũ Hành

Anh Yu 20 Thg 01

XEM NHANH

    Sau bài viết về Quan điểm âm dương trong tính dục được nhiều bạn đọc mến mộ trong năm 2014, Bếp Thực Dưỡng xin mở rộng chủ đề này một chút nhằm giúp mọi người hạnh phúc hơn trong cuộc sống, hạn chế thâm hụt ngân sách 🙂

    chungt

    Hiểu biết các bí quyết hành sự dựa trên âm dương ngũ hành 

    Hoàng Đế nói với Tố Nữ rằng: “Ta cảm thấy mình khí suy nhược, khi giao hợp thì không đồng nhịp với người nữ. Bình thường thì lòng chẳng cảm thấy vui, lại luôn luôn lo sợ hồi hộp như sắp có chuyện gì nguy hiểm xảy ra cho mình. Tại sao vậy?”

    Tố Nữ đáp: “Tất cả hiện tượng nói trên đều do âm dương không điều hoà mà sinh ra. Âm dương không điều hoà vì sinh hoạt phòng sự không đúng cách. Nếu tinh lực của nữ nhân cường thắng hơn nam nhân thì chẳng khác nào như nước tạt vào ngọn đuốc, đuốc sẽ tắt; nam nhân không kham nỗi nên không còn hứng thú .

    Nói cách dễ hiểu, sinh hoạt phòng sự như nấu nướng thức ăn phải phối hợp điều hòa giữa lửa và nước mới có món ăn ngon. Nếu thấu triệt nguyên tắc trên và thực hiện được thì sẽ hưởng thụ sự lạc thú của nhân gian, bằng không thì thân thể trở nên suy nhược có thể đến tán mạng nữa. Lúc đó đâu còn gì vui thú nữa .

    Bởi vậy nhân gian phải thận trọng trong việc phòng the, tránh đi ra ngoài nguyên tắc không đồng điệu nói trên.”

    GHI CHÚ:

    Hoàng Đế là một trong ba vị vua thời thái cổ : Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế. Tương truyền Phục Hy phát minh ra bát quái, nghiên cứu về âm dương ngũ hành. Âm dương là những thể đối nghịch nhau của sự vật như trời-đất, mặt trời-mặt trăng, nam-nữ, trắng-đen, ngày-đêm…

    Phục Hy cũng là vị vua chỉ dạy cho nhân dân sự kết hôn. Trong việc phòng sự nam nữ, Phục Hy bàn rằng: “Trời (dương) chuyển từ phải sang trái, đất (âm) chuyển từ trái sang phải. Nam nhân trong lúc giao hợp, theo thuộc tính dương đó, chuyển động (sàng) sang trái trong khi nữ nhân chuyển động (sàng) sang bên phải,. Nam nhân như trời ở trên trùm phủ xuống dưới. Nữ nhân như đất ở dưới nghinh tiếp lên trên. Vị thế cơ bản của phòng the giao hợp là vậy, hai bên sàng ngược chiều nhau và trên thúc xuống, dưới hẩy lên”.

    Hoàng Đế vốn người thuộc lưu vực sông Hoàng Hà, là người lãnh đạo của mấy bộ lạc lớn tại đây. Theo sử, ông sanh sống vào khoảng 2.550 trước Công-nguyên, thông tuệ, đã phát kiến ra kim chỉ nam, đã quan sát được sự vận hành của Thái dương hệ. Trên mặt đất thì ông quan sát về những dấu vết để lại do cầm thú chim muông từ đó xác định phái đực cái của từng con. Về nhân văn, ông thiết lập ra hệ thống chữ viết của người Trung Quốc thời đó. Nhờ sự phát minh này, người Trung Hoa mới bắt đầu ghi lại các chuyện xảy ra chung quanh mình lưu truyền lại cho đời sau.

    Về Y khoa, Hoàng Đế và sáu vị y sĩ trong nhóm Chi Bách hoàn thành một bộ Bách Khoa Y Học có tên là “Y học trọng điển” mà “Hoàng Đế nội kinh” là một quyển ở trong bộ đó. Chi Bách và những vị danh sư lúc bấy giờ là những người cố vấn của Hoàng Đế về những vấn đề y dược và là y sĩ của Hoàng Đế.

    Hoàng Đế có nhiều cung nữ nhưng giao hợp không đúng phương pháp cho nên khi niên tuế vào độ ngũ tuần thì thần sắc suy nhược không còn tráng kiện nữa. Ông mới đi hỏi Chi Bách và Tố Nữ về cách thế giao hợp dúng cách để khỏi suy nhược thân thể. Trong sách Hoàng Đế nội kinh, thiên “Thượng cổ thiên chân luận”có ghi sự vấn kế nầy như sau:

    “Trẫm thường nghe người thời xưa sống hàng trăm năm mà động tác (tình dục) không suy yếu. Người thời nay tuổi mới vừa khoảng năm mươi mà động tác (tình dục) đã suy nhược…”.

    Chi-Bách đáp rằng : “Người xưa sở dĩ được trường thọ vì họ hiểu thấu đáo đạo âm dương, từ đó chuyện gối chăn được thực hành hợp lý. Lão tử nói: “Vạn vật phụ âm nhi bão dương, xung khí dĩ vi hòa”. Bốn mùa, trời đất, âm dương, con người phải “thuận theo” đó là nguyên tắc cơ bản của sống còn, nếu nghịch lại hay vi phạm nguyên tắc tự nhiên này thì sẽ sinh ra rất nhiều tai hại. Ví dụ như nguyên tắc xuân sanh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàng (muà xuân gieo mạ trồng lúa, mùa hạ lúa lớn, mùa thu gặt lúa, mùa đông gặt lúa cất vào kho). Nếu bây giờ không thuận theo mà mà mùa thu hay đông lại gieo mạ trồng lúa thì lúa sẽ khô chết, không lớn lên được.

    Tố Nữ trả lời như sau: “Vấn đề Hoàng thượng đưa ra đó, giải đáp trả lời có thể căn cứ theo thuyết âm dương ngũ hành. Như tính nước cực mạnh sẽ tiêu diệt được tính lửa, đó là nguyên tắc gây ra thể lực suy yếu ở người nam. Trong trời đất có năm yếu tố chánh (ngũ hành) là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.

    Chúng tương khắc nhau là mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc thổ… cứ như vậy mà tuần hoàn mãi mãi.

    Vậy thì nếu thuỷ tính (nữ nhân) quá mạnh thì dễ hại tới hỏa tính (đàn ông). Mặt khác trong lúc giao hoan cao trào tuyệt hứng của đôi bên so le thì cũng gây nên hậu quả không tốt.

    Một điều nữa là nam nhân sau khi xuất tinh xong quá mệt lăn ra ngủ, trong khi đó nếu nữ nhân chưa hoàn thành cao trào, còn đầy cảm hứng thì hậu quả sự bất hòa hợp nầy là một bệnh trạng cần phải sửa đổi hay chữa trị.

    Nay Hoàng Đế sớm xuất tinh, suy nhược động tác (tình dục) là vì không hiểu biết sinh hoạt phòng sự một cách bình thường. Hậu quả là không cảm thấy thống khoái mà là một trạng thái mệt mỏi. Tất cả vì Hoàng Đế không thông hiểu thuỷ tính và hỏa tính, không thông hiểu tệ quả của bất điều hòa âm dương.”

    GHI CHÚ:

    Bác sĩ Kim Soai cho rằng sau khi bắn tinh xong, nam nhân từ trạng thái sung sướng cực độ trở về trạng thái không còn cảm giác và rất buồn ngủ. Bởi vậy mới có nhiều trường hợp bẽ bàng trong đêm tân hôn. Trước đó thì nữ nhân e dè, sợ sệt, nam nhân “hoa ngôn xảo ngữ” để được tiến hành, nhưng khi xong phần mình liền lăn ra ngủ đuốc hoa bỏ đó mặc nàng nằm trơ khiến cho cô dâu từ đó có một tâm trạng chán sợ chuyện chăn gối ái ân, có thể thành bệnh lãnh cảm sau nầy.

    Bác sĩ Kim Soai cũng cho biết là âm đạo càng được dương vật cọ xát, người đàn bà càng cảm thấy sướng thú hứng tình đến nỗi muốn từ chối ái ân vì một lý do nào đó cũng không thể nào từ chối được. Điều xác định nầy phù hợp với lời của Tố Nữ nam nhâm hỏa tính, nữ nhân thủy tính. Khi nước dâng lên cao (nước nôi tràn đầy đầm đìa) lửa bị tắt (bắn khí, xìu, mệt). Khi nước bị lửa đun sôi (cọ xát, chọc, đâm) thì nước sôi ào ạt, phùn phụt…

    Những cấm kỵ khi giao hợp 

    phong the thumb

    Hoàng Đế hỏi Tố Nữ: Tinh lực của nam nhân biến đổi bất thường, có khi yếu khiến dương vật không dương lên, có khi tinh dịch yếu đến không xuất ra. Nàng có biết phép trị liệu nào không?

    Tố Nữ đáp: “Sự kiện này cũng thường thôi, biết bao nhiêu nam nhân đắm say tửu sắc đến sanh tật bệnh. Muốn trẻ mãi không già không gì bằng đừng mê gái đẹp. Đây là một điều rất quan trọng mà nhân sinh mắc phải vẫn không chừa. Nếu vì sắc mà trị bệnh thì phải dùng dược liệu trị ngay. Tuy nhiên trước khi bắt đầu giao hợp phải tránh những cấm kỵ, vi phạm những cấm ky thì dùng dược kiệu cũng vô ích mà thôi.”

    Những cấm kỵ đó là gì?

    Kỵ thứ nhất:

    Không được giao hợp vào ngày đầu tháng âm lịch (thượng ngươn) giữa tháng (lúc trăng tròn) và cuối tháng. Phạ vào câm kỵ này con cái sinh ra sẽ bị thương tổn con mình thì “không còn giương lên được”. Trong mình lúc đó bị ” ục hỏa thiêu trung” nghĩa là hỏa thị dục thiêu đốt tâm can của mình nên nước tiểu ra có màu đỏ hay vàng lườm. Nhiều khi mang thêm bêïnh di tinh. Tuổi thọ bị giảm.

    Kỵ thứ hai:

    Khi có sấm sét, mưa gió, đất thảm trời sầu, động đất, tránh không được giao hợp. Giao hợp thì con cái sinh ra sẽ bị câm điếc, mù loà hay tinh thần suy nhược. Về phương diện tâm lý thì đúa nhỏ sẽ có một tinh thần suy nhược, đa sầ , đa cảm, luôn luôn ủ dột.

    Kỵ thứ ba:

    Không nên giao hợp khi đã ăn quá no hay khi đương cơn say. Phạm cấm kỵ này nội tạng bị tổn thương, nước tiểu màu đỏ, mặt tái xanh, lưng đau mỏi, mình mẩy phù thủng, tuổi thọ bị rút xuống rất nhanh.

    Kỵ thứ tư:

    Không nên giao hợp khi vừa mới đi tiểu xong. Lúc này cơ thể chưa trở về trạng thái bình thường, chưa sẵn sàng để mở ra hoạt động rất phức tạp là giao hoan. Phạm điều cấm kỵ này thì về sau ăn uống sẽ mất ngon, bụng phình to, tâm thần luôn luôn phiền muộn, nhiều khi lơ đãng như người mất trí.

    Kỵ thứ năm:

    Tránh giao hợp khi ngưòi đã mầt sức vì mệt nhọc như đi bộ, lao động nặng, mệt mỏi chưa phục hồi, trong minh bãi hoải. Phạm cấm kỵ này thì sẽ bi mắc bệnh suyễn, miệng khô, đường tiêu hoá bị trở ngại, các cơ quan bài tiết gặp những giao động.

    Kỵ thứ sáu:

    Không nên giao hợp liền khi đương nói chuyện với nữ nhân mà dương cụ nổi lên. Vi phạm điều này thì dương cụ bị thương tổn, nội trạng bị suy, lỗ tai không còn thính, tinh thần bất an, ho suyễn. Nhắc lại, sáu điều cấm kỵ này quan trọng đến nổi nếu phạm phải thì sinh bệnh, chỉ có thần dược mới sửa nổi mà thôi.

     

    Sách Tố Nữ ghi lại cuộc đối thoại sau đây:

    Hoàng Đế hỏi Cao Dương Phu: “Ta nghe Tố Nữ nói nam nhân hay bị cửu lao và thất thương, nữ nhân hay bị hồng, bạch đái và tuyệt sinh (không thể sinh con). Thử hỏi vì sao mà sinh ra những chứng bệnh này ?”

    Cao Dương Phụ nói: “Nam nhân thường bị các tệ nạn ngủ lao, lục cực và thất thương. Các bệnh này sinh ra điều có nguyên nhân.”

    Hoàng Đế nói: “Ta muốn nghe nói về thất thương, xin nàng trình bày cho rõ.” Cao Dương Phụ nói:

    Thất thương là:

    • Âm hản (mồ hôi trộm)
    • Âm suy (yếu sinh lý)
    • Tâm thanh (tinh dịch đổi màu không trắng)
    • Tinh thiểu (tinh dịch ít và lỏng bỏng)
    • Âm hộ ướt
    • Tiểu ít
    • Không cương cứng

    Làm sao trị những chứng bệnh trên?

    Chỉ có cách dùng phục linh. Phục linh là thần dược có thể dùng quanh năm. Các dược liệu khác dùng chung và các điều chế như sau:

    • Phục linh 4 phân
    • Sương bồ 4 phân
    • Sơn cu di 4 phân
    • Quát tử cân 4 phân
    • Thố hệ tử 4 phân
    • Ngưu thằng 4 phân
    • Thức thạch chi 4 phân
    • Can địa hoàng 7 phân
    • Te tan 4 phân
    • Phòng phong 4 phân
    • Xu dự 4 phân
    • Thục đoạn 4 phân
    • Sà sàn tử 4 phân
    • Bát thực 4 phân
    • Tam thiên kỵ 4 phân
    • Thiên hùng 4 phân
    • Thạch đâu 4 phân
    • Đổ trọng 4 phân
    • Tùng dung 4 phân

    Các dược liệu nói trên đem tán chung thàng bột, thêm vào mật ong, trộn đều, vo lại thành viên bằng ngón tay, dùng ngày ba lần, mỗi lần 3 viên .

    Có thể không cần trộn với mật ong, để bọt như vậy dùng như thuốc tán, mỗi lần dùng một muổng canh, dùng liên tiếp 7 ngày thì sẽ có hiệu quả, mười ngày thì sẽ hết bệnh, 39 ngày thì sẽ trở lại bình thường. Nếu dùng thường trực thì sẽ được cải lão hoàn đồng, thân thể khoẻ mạnh. Trong thời gian dùng thuốc này, cữ thịt heo, thịt dê, cử không được uống nước lạnh (uống trà nóng thì tốt).

    Kinh Dịch có nói: “Các hiện tượng của trời đất là điềm triệu của cát hung, tốt xấu, bởi vậy người đời căn cứ trên thiên nhiên mà đoán được chuyện sắp xẩy ra. Những điều cấm kỵ nói trên điều căn cứ trên triết lý lấy thiên địa nhan làm gốc.”

    • Điều cấm một là vì các ngày tháng này tương ngày âm thần.
    • Điều cấm hai là vì các ngày giờ nà là tương đương thiên kỵ. Điều cấm này cũng hấy nhắc đến trong sách Lễ Ký. Sách Lễ Ký chép rằng khi trời nổi cơn mưa gió sấm xét thì không nên thụ thai vì đó là lúc thiên nhiên đang cường nộ, người giao hợp dễ bị phong đơn. Lấy cái nhìn tân tiến mà xét, thì có sấm xét thì trong lòng ta không yên, việc phòng sự không còn hứng thú nữa.
    • Điều cấm thứ ba thuộc về nhân kỵ: Ăn no sẽ ảng hưởng đến tì (bao tử), hỉ nộ, bi, thương sẽ bị ảnh hưởng đến nội trạng. Y học ngày nay cũng có bàn luận xa gần, đến vấn đề này khi khảo về sự tương quan giữa âm và thân (thân tâm y học).

    Ngoài ra còn có địa kỵ mà người dân tương truyền cùng nhau là cơ bản văn hoá Á Đông, đó là không được giao hợp trong đền chùa, thần mếu, phật pháp, đáy giếng chỗ nhà bếp, nơi cầu, chổ mồ mả, cạnh quan tài. Các điều cấm kỵ này đưa ra là để ta an tâm rằng, mình không có làm gì bậy thì như cuộc vui mới đạt được tuyệt đỉnh của nó.

    • Điều cấm kỵ thứ tư là không được giao hợp khi mới tiểu xong mới nghe qua thì có vẻ vô lý nhưng người Trung Hoa ngày xưa đã có căn cứ tin tưởng điều này. Sách “Ngọc phòng bí quyết” có đoạn nói rằng sau khi tiểu xong thì tinh khí hao hụt, các mạch đạo không thông, trong tình trạng như vậy mà giao hợp thì đương nhiên bị tổn thương nội trạng. Nếu giao hợp thụ thai được người mẹ sẽ bị tổn thọ.

    Tất cả 7 điều cấm kỵ trên thì ngưòi xưa điều có lý do của họ, ta thấy rằng không hữu lý vì ta nhìn dưới cặp mắt của người tân thời, không để ý trên khía cạnh âm dương, mạch… của y lý xưa. Nhưng không phải vì vậy mà ta kinh thường rồi cứ ngang nhiên bước vào những điều cấm kỵ.

    Xét cuộc nói chuyện tên của Hoàng Đế và Cao Dương Trụ ta nghe nhắc đến ngủ lao, lục cực và thất thương, nhưng phần chỉ mơí nói đến thất thương mà thôi, các thứ khjác không thấy nhắc đến. Độc rải rác đò đây thì thấy Tố Nữ kinh, thì thấy Tố Nữ kinh cò nhắc đến các bệnh về bộ máy sinh dục khiến ta có nghĩ rằng nhủ lao, lục cực là nói về bệnh sinh lý. Chẳng hạn như bệnh niếu đạo viêm (sưng đường tiểu). Về bệnh này Đông y có đưa ra phép chửa như sau:

    • Uống thật nhiều nước
    • Cử ăn các loại sinh vật

    Cách này xét ra đã có kết quả.

    Tây y nghiên cứu nơi tật bệnh mà cho toa, ít chú trọng đến nguyên nhân xa cho nên lắm khi bệnh hết mà hại các cơ quan khác, tiếng y khoa gọi là phản ứng phụ, Đông y trái lại tuỳ theo tính chất của bệnh và sự quân bình mạch, nhiệt của bệnh nhân mà gia giảm thuốc cho nên tuỳ người mà có thang thuốc riêng, bởi vậy dùng đông y nên cẩn thận, không nên thấy người nọ ngưòi kia uống thang thuốc này thang thuốc nọ hết bệnh mà cứ lấy toa mà cứ lấy thang thuốc riêng của họ ma bổ cho mình.

    Thời tiêt trong năm đối vơí Đông y cũng quan trọng. Sách còn nghi lại câu chuyện của Cao Dương Trụ đáp Hoàng Đế trong đó nàng nói mỗi mùa thì dùng những thứ thuốc khác nhau, thuốc mùa thu khác với với thốc mùa hạ, thuốc mùa hạ khác với thuốc mùa Đông . . .

    – Trích Tố Nữ Kinh

    Anh Yu

    Xếp có ý. Chụp có tình [Đặt mua sách nấu ăn]

    Gửi

    Bài viết liên quan