Chế độ ăn của chúng ta nên thay đổi phù hợp theo sự phát triển của răng. Thực phẩm lý tưởng cho trẻ sơ sinh chính là sữa mẹ, và trong sáu tháng đầu tất cả thức ăn của đứa trẻ cũng nên có nguồn gốc từ sữa mẹ. Từ khoảng thời gian đó, lượng sữa mẹ giảm dần đi trong 6 tháng tiếp theo, trong khi các loại thực phẩm mềm – hầu như không chứa muối, được thêm vào với lượng tương ứng. Sữa mẹ thường nên được dừng khi trẻ mọc răng hàm lần đầu (thường từ 12 đến 14 tháng) và chế độ ăn của đứa trẻ lúc đó chỉ nên chứa thức ăn mềm nhuyễn.
Những thức ăn cứng hơn nên được đưa vào trong khoảng thời gian trẻ mới mọc răng hàm và tăng dần với một lượng lớn ở năm tiếp theo. Vào khoảng 20 đến 24 tháng tuổi, những thức ăn mềm nhuyễn nên được thay thế hoàn toàn bằng những loại thức ăn cứng hơn vốn là thành phần cốt lõi của một khấu phần ăn.
Có bạn nhắn tin hỏi, trẻ đã mọc răng mà cho bú có sao không? Theo quan điểm của tôi, nói là có sao thì cũng có, mà nói không sao thì cũng không.
Theo Đông Y Học, chỉ khi thận khí đã đạt ngưỡng thì răng sữa mới bắt đầu mọc, khi nó đạt ngưỡng lần thứ 2 thì thay răng, lần 3 thì dậy thì. Tất cả những điểm này đều là biểu hiện cho sự thích nghi của cơ thể với hoàn cảnh sinh hoạt mới, cũng là báo hiệu rằng thói quen sinh hoạt cần bắt đầu thay đổi.
Khi trẻ chưa có răng, chỉ có thể ăn thức ăn lỏng. Thức ăn này là dạng âm nhất, như sữa mẹ, rất giàu dinh dưỡng, thời kì này trẻ thường “bụ sữa” nhìn mập mạp đáng yêu, thịt nhiều hơn xương là bình thường. Ôm hay bế rất thoải mái.
Khi trẻ bắt đầu mọc răng, đó là thông báo cơ thể trẻ bắt đầu tiếp nhận được dạng thức ăn đặc hơn, cần giảm sữa mẹ và cho ăn dặm. Nếu thời kì này mà vẫn duy trì sữa mẹ như cũ, hậu quả khác thì tôi chưa biết, nhưng thịt tiếp tục nhiều hơn xương có thể gây nhiều sức ép về trọng lượng lên khung xương còn non nớt của trẻ, gây chân vòng kiềng, chân chữ bát và nhiều tật về xương khác, bởi vì giai đoạn mọc răng cũng là giai đoạn trẻ bắt đầu tập bò, tập đi. Giai đoạn này trẻ tọp người đi và trông dài người ra là bình thường. Cần chú trọng lượng chất khoáng đầy đủ trong thức ăn dặm cho trẻ. Cần chú trọng dưỡng gân xương chứ không phải dưỡng da thịt.
Bà mẹ nuôi con theo Thực Dưỡng đúng cách thì nhiều sữa, loại sữa sinh ra cũng rất đặc sánh, nếu đem 1 giọt nhỏ vào bát nước, nó rơi gọn xuống tận đáy bát mới từ từ khuếch tán ra. Trẻ bú loại sữa này tiểu ít và no bụng lâu hơn, buổi đêm ít phải dậy cho bú. Về mặt tâm lý, trẻ có cảm giác thoả mãn hơn và sau đó cũng dễ cai sữa hơn, việc chuyển tiếp sang ăn dặm cũng rất dễ dàng. Khi thận khí phát triển đầy đủ, trẻ không bị sợ hãi, bất an nên cũng ít quấy khóc. Những đứa bé thận khí không đủ thường khi đã cai sữa cũng vẫn có thói quen mút ngón tay, bởi vì về mặt tiềm thức, cảm giác được cho bú mang lại cho trẻ sự an tâm, cảm giác được che chở. Nếu thói quen mút ngón tay ấy kéo dài, khi lớn sẽ tạo ra dáng miệng thổi lửa, là 1 nét tướng xấu, báo hiệu dạng người yếu đuối, dựa dẫm, kém trí.
Dưỡng thận khí lý tưởng nhất là ngũ cốc lứt, nhất là gạo lứt. Cho đến khi trẻ thay răng sữa thành răng trưởng thành, lúc đó cơ thể mới có thể tiếp nhận dạng thức ăn khô và rắn hơn như cơm gạo lứt. Trước đó, muốn cho trẻ ăn những thức này cần chà dập, xay thành bột, nấu thành cháo để cơ thể trẻ hấp thu thuận lợi. (Hương Kiều)
Khi bắt đầu sang tuổi thứ ba, một đứa trẻ có thể tiếp nhận 1/3 đến ¼ lượng muối bằng với người lớn tùy theo sức khỏe của bé. Lượng tiếp nhận muối của một đứa trẻ nên được duy trì ở mức thấp hơn so với người lớn cho đến những năm 17, 18 tuổi.
Vào năm 4 tuổi, một chế độ ăn tiêu chuẩn đã có thể được thực hiện, đi cùng với một ít muối biển, miso và một số loại gia vị khác, bao gồm cả gừng.
Sau đây là những lời khuyên về chế độ ăn ta có thể tham khảo:
Ngũ cốc nguyên cám—Sữa ngũ cốc có thể được áp dụng trong độ tuổi từ sau 8 tháng đến 1 năm như là loại thức ăn chính. Nó cũng có thể được dùng sớm hơn để thay thế sữa mẹ nếu người mẹ không thể cho con bú. Gạo lứt là nguyên liệu chính trong sữa ngũ cốc, và giá trị dinh dưỡng của nó cũng tương đương với sữa mẹ. Những hương vị khác nhau tác động đến chúng ta theo những giai đoạn phát triển khác nhau. Vị ngọt tự nhiên thì có ảnh hưởng rất lớn đến trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Để thay thế vị ngọt của sữa mẹ cũng như cung cấp đủ protein và chất béo cần thiết cho sự phát triển của đứa trẻ, gạo nếp– loại gạo cung cấp còn nhiều hơn cả ba tiêu chí trên-có thể được áp dụng cùng với lúa mạch barley và các dạng ngũ cốc nguyên cám khác.
Sữa ngũ cốc nên dùng ở dạng như cháo ngũ cốc nguyên cám, có thành phần gồm 4 phần gạo lứt (nên dùng hạt ngắn), 3 phần gạo nếp lứt, và 1 phần lúa mạch barley. Tốt nhất là nên nấu với một ít rong biển kombu, mặc dù loại rau biển này không nhất thiết lúc nào cũng phải ăn. Thỉnh thoảng ta cũng có thể cho thêm hạt kê và yến mạch. Tuy nhiên kiều mạch buckwheat, lúa mì và lúa mạch đen rye thì không nên sử dụng thường xuyên.
Ngũ cốc có thể chế biến bằng cách đun áp suất hay nấu với nước như bình thường. Với cách đun áp suất, ngâm hạt thô qua đêm hoặc 24 tiếng nếu trời rất lạnh. Lượng nước để đun phải gấp năm lần lượng hạt. Đun khoảng 1 tiếng rưỡi cho đến khi ngũ cốc thật mềm và mịn. Đun với lửa nhỏ khi ngũ cốc đủ áp suất. Với cách “luộc”, ngâm ngũ cốc tương tự như đun áp suất và “luộc” với lượng nước gấp mười lần đến khi cạn một nửa. Giảm nhỏ lửa khi ngũ cốc bắt đầu sôi.
Khi pha chế sữa ngũ cốc cho trẻ sơ sinh, cho hỗn hợp cần chế biến vào một bao vải và lọc bỏ cám. Sau đó ta có thể thêm vị ngọt bằng cách cho 1 thìa cà phê mạch nha (barley malt) hoặc siro gạo (brown rice syrup) vào sữa ngũ cốc. Đun hỗn hợp trên và ninh vài phút trước khi dùng.
Khi pha chế sữa ngũ cốc cho trẻ lớn hơn, sau khi đun xong, đổ nó vào cối xay và nghiền thật kĩ. Không được dùng máy xay hay bất kì loại máy chạy điện nào để nghiền. Sau khi nghiền xong, cho thêm một lượng nhỏ mạch nha hoặc siro gạo vào.
Khi sữa ngũ cốc đã đủ độ sệt và đủ gia vị, đun sữa ở nhiệt độ ~37 độ C và cho vào bình bú. Bảo quản sữa trong vòng 2-3 ngày bằng cách đựng sữa trong chai thủy tinh và cho vào tủ lạnh; đun lại trước khi sử dụng.
Nếu sữa ngũ cốc không chảy qua được bình bú, ta có thể pha loãng sữa với nước và lọc thêm vài lần, hoặc cũng có thể nới rộng lỗ bình bú bằng kim. Trước khi nới, ta cần khử trùng đầu kim bằng cách hơ nóng nó. Nên sử dụng những loại núm vú được thiết kế đặc biệt cho răng của bé để đảm bảo sự phát triển tự nhiên cho răng lợi.
Thành phần nguyên liệu và tỷ lệ của sữa ngũ cốc có thể thay đổi đôi chút tùy thuộc vào độ tuổi và nhu cầu của trẻ. Sữa ngũ cốc có thể là một trong những loại thực phẩm mềm đầu tiên trong thời kì ăn dặm. Nhìn chung, sữa ngũ cốc được pha loãng nên dùng cho trẻ nhỏ, trong khi trẻ lớn hơn thì dùng sữa đặc hơn. Tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ mà tỉ lệ của nước và ngũ cốc có thể thay đổi từ 10:1 đến 7:1 hay 3:1.
Ta cũng có thể cho hạt vừng vào sữa ngũ cốc nếu muốn. Hạt phải được rang và nghiền thật kỹ bằng cối suribachi trước khi cho vào. Khoảng 5-10% hạt vừng đã nghiền có thể nấu cùng với ngũ cốc.
Thỉnh thoảng trẻ cũng nên được cho ăn kem gạo đặc biệt. Để chế biến, nấu áp suất gạo lứt với 3-6 phần nước và 1 inch rong biển kombu trong ít nhất 2 tiếng (không nêm muối). Chắt cơm và nước gạo bằng miếng vải lọc sạch. Lấy phần nước cho vào bình bú, pha loãng và chắt lần nữa nếu cần. Thỉnh thoảng có thể rang gạo trước khi nấu.
Cần cẩn thận tránh cho trẻ ăn bột ngũ cốc ăn liền (loại của hãng bán ở siêu thị) hay cháo có nguyên liệu từ bột xây xát tinh chế có đặc tính tạo chất nhày.
Canh Soup —Trẻ sau 5 tháng có thể sử dụng súp canh, đặc biệt là nước rau. Nguyên liệu có thể gồm rau củ đã được nghiền nhuyễn thành dạng sệt. Không nên sử dụng muối, tương miso hay tamari cho trẻ dưới 10 tháng. Sau tuổi đó ta có thể tăng vị mặn lên một chút. Nhưng trong vài trường hợp, nếu phân của trẻ có màu xanh hay trẻ có vấn đề về đường tiêu hóa, ta có thể nêm thêm vị mặn, nhưng chỉ với một lượng nhỏ và trong một khoảng thời gian ngắn.
Rau củ—Ngoài sữa ngũ cốc ra, trẻ sơ sinh cũng có thể dùng nước luộc từ rau củ. Để chế biến, cho các loại rau củ như cà rốt, bí đỏ, bắp cải, bông cải hay bắp vào trong nồi; có thể cho thêm khoảng 1 inch rong biển kombu đã ngâm. Đun nhỏ lửa nồi rau củ trong khoảng 30-45 phút. Chắt lấy nước bằng miếng vải lọc sạch. Đổ nước vào bình, để nguội rồi cho bé uống. Trẻ có thể dùng rau củ trực tiếp khi được 5-7 tháng tuổi, là lúc trẻ bắt đầu mọc răng và đã ăn ngũ cốc trước đó 1 tháng. Khi cho trẻ ăn rau củ, nên cho ăn những loại ngọt trước như cà rốt, bắp cải, các loại bí đỏ mùa đông, hành, củ cải trắng và cải thảo. Những loại này nên được luộc kỹ và nghiền nhuyễn. Vì trẻ thường khó ăn rau lá, nên cha mẹ nên biết cách chọn thực phẩm cho con. Nên chọn loại rau có vị ngọt như cải xoăn kale, bông cải thay vì vị đắng như cải xoong hay cải đắng (mustard). Những loại gia vị nhẹ có thể được nêm thêm vào rau củ cho trẻ sau 10 tháng để kích thích sự ngon miệng. Khi trẻ bắt đầu mọc răng, cà rốt sống có thể dùng làm đồ chơi cho trẻ để kích thích sự mọc răng.
Các loại đậu—Sữa đậu nành nguyên chất homemade có thể cho trẻ dùng như là món bổ sung cho sữa ngũ cốc. Để chế biến, ngâm khoảng 3 cup đậu nành qua đêm rồi đem chắt bỏ nước. Sau đó dùng máy xay để nghiền nhỏ đậu (đây là một trong số ít trường hợp có thể sử dụng đồ điện tử để nấu). Hoặc nếu có đủ thời gian và sự kiên nhẫn thì bạn có thể dùng cối xay tay. Cho khoảng 5.5l nước và 1 inch rong biển kombu vào chỗ đậu nghiền và cho vào nồi. Để lửa nhỏ và đun trong vòng 5 phút. Khuấy liên tục để tránh bị cháy. Vẩy nước lạnh vào hỗn hợp để ngăn sủi bọt và đun sôi nhẹ. Tiếp tục vẩy nước và đun sôi nhẹ (không được đậy vung sẽ trào) . Dùng vải mùng lọc chắt lấy phần nước -chính là sữa đậu nành- rồi cho ra tô (phần bột thừa hay còn gọi là okara, có thể giữ lại và sử dụng cho món khác). Rót sữa đậu nành vào trong bình, để nguội rồi cho trẻ uống. Nếu sữa không chảy qua được bình bú, ta có thể pha loãng sữa với nước và lọc thêm lần nữa. Sữa đậu nành thường rất ngọt, nhưng nếu muốn tăng thêm vị ngọt ta có thể dùng mạch nha hay siro gạo giống như công thức của sữa ngũ cốc. Sữa đậu nành có thể được bảo quản 1-2 ngày bằng cách đựng sữa trong chai thủy tinh và cho vào tủ lạnh; đun ~37 độ C trước khi sử dụng lại.
Trẻ có thể dùng các loại đậu trực tiếp (whole bean) sau 8 tháng, nhưng chỉ nên dùng với một lượng nhỏ các loại xích tiểu đậu azuki, đậu lentil, đậu gà, phải được nấu chín với rong kombu và nghiền nhuyễn. Các loại đậu khác như đậu đỏ lớn (kidney bean), đậu nành nguyên phần và đậu navy có thể thỉnh thoảng sử dụng miễn là chúng được nấu kĩ đến mềm nhuyễn.
Từ sau tháng thứ 10, ta có thể nêm đậu với một ít muối biển, tương tamari, bí đỏ, mạch nha hay siro gạo lứt.
Các loại rong biển—Rong biển kombu thường được nấu với sữa ngũ cốc, nhưng thường phải lấy ra khi nấu xong. Nếu nghiền thật nhuyễn, một lượng nhỏ rong kombu có thể dùng cho trẻ nhỏ, cũng như lượng ít rong biển sushi (nori), hiziki và arame. Nhìn chung, các loại rong biển có thể dùng làm món riêng (side dish) khi trẻ được 1 tuổi rưỡi đến 2 tuổi.
Gia vị—Thông thường, ta không nên cho trẻ dưới 10 tháng tuổi dùng muối, tương miso hay tamari. Sau độ tuổi đó, ta có thể nêm chút vị mặn tùy thuộc vào tình trạng sức khỏe của trẻ, đặc biệt là màu sắc và hình dạng của phân (phải không quá cứng cũng không quá mềm, màu vàng đến vàng nâu). Đến năm 3 tuổi, trẻ có thể sử dụng lượng muối bằng 1/3 đến ¼ lượng sử dụng của người lớn. Lượng gia vị có thể tăng dần đến khi trẻ được 7-8 tuổi, khi đó lượng gia vị sử dụng cho trẻ lớn và người trưởng thành là như nhau. Trong suốt quá trình tăng lượng gia vị cho trẻ, thức ăn cho trẻ và người lớn có thể nấu chung với nhau; nhưng lúc cuối trước khi cho gia vị vào, phần ăn của trẻ có thể tách ra và nêm riêng, hoặc ta có thể nêm rất nhạt và sử dụng đồ chấm riêng cho người lớn như muối mè… Thông thường ta không nên cho trẻ nhỏ ăn nhiều mì căn, đậu phụ, tempeh và những loại thực phẩm giàu muối hay natri. Chỉ nên dùng thỉnh thoảng và với một lượng nhỏ, mềm.
Thịt, cá—Lý tưởng nhất thì trẻ dưới 4 tuổi không nên sử dụng đạm động vật, kể cả cá, trừ những trường hợp đặc biệt khi trẻ yếu ớt, thiếu máu, kiệt sức. Lúc đó hãy cho trẻ ăn một lượng thìa canh thịt cá trắng hoặc hải sản đã được luộc kĩ với rau củ rồi xay nhuyễn. Từ sau 4 tuổi, nếu muốn, trẻ có thể thỉnh thoảng ăn thịt cá trắng (cá chép, cá con, tép con..) hoặc hải sản.
Trái cây—Thỉnh thoảng trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ vẫn có thể ăn trái cây. Có thể cho trẻ từ một tuổi rưỡi đến hai tuổi trở lên dùng các loại trái cây ôn đới với một lượng nhỏ, khoảng 1 thìa canh, đã được nấu chín và xay nhuyễn. Nhưng trong một vài trường hợp đặc biệt, táo nấu hay nước ép táo có thể dùng tạm thời để cân bằng cơ thể.
Dưa muối—Những loại dưa (pickles) được muối theo truyền thống, ngâm ít ngày, ít gia vị có thể dùng cho trẻ trên 2-3 tuổi.
Thức uống—Những loại thức uống thường ngày có thể sử dụng là nước suối, nước khoáng (đã đun sôi để nguội), trà già, trà ngũ cốc, nước ép táo (ấm hoặc nóng), rượu nếp amasake (đã đun sôi với lượng nước gấp đôi và để nguội).
– Aveline Kushi –